Quốc hội Việt Nam liên tục tự đổi
mới, cải tiến cách thức làm việc nhằm tăng cường dân chủ, công khai, minh bạch,
nâng cao hiệu quả làm việc và thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng của cử tri, nhân
dân cả nước. Tuy nhiên, đâu đó lại xuất hiện một vài giọng điệu đả kích, cho
rằng: "Quốc hội Việt Nam chỉ quyết định theo chỉ đạo của Đảng, là cơ quan
thảo luận cho vui và chỉ mang tính hình thức". Những giọng điệu này hoàn
toàn lạc lõng trước sự tín nhiệm ngày càng cao của cử tri, nhân dân dành cho
Quốc hội Việt Nam.
Được giới thiệu, chưa chắc trúng cử
Một
trong những lập luận của những người đả kích là "các cuộc bầu cử đại biểu
Quốc hội (ĐBQH) đều được tiến hành trên cơ sở Đảng cử, dân bầu nên không có tự
do ứng cử", rồi "khi bầu cử thì vận động, ép buộc bầu người này,
người kia, như thế là không dân chủ".
Quốc hội Việt Nam. Ảnh: Sưu tầm
Theo
Hiến pháp cũng như quy định của Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu hội đồng
nhân dân (HĐND), mọi công dân Việt Nam nếu thấy mình đáp ứng đủ tiêu chuẩn
của ĐBQH, đại biểu HĐND đều có quyền tự ứng cử. Các tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế cũng có quyền giới thiệu người ứng
cử ĐBQH, đại biểu HĐND.
Việc
tổ chức 3 vòng hiệp thương để chốt danh sách người ứng cử cũng là chuyện bình
thường và nước nào cũng có cách làm tương tự để rà soát người đáp ứng đủ tiêu
chuẩn ứng cử. Công việc này ở mỗi nước được giao các cơ quan khác nhau đảm
nhiệm, tùy theo đặc điểm, tình hình. Tại Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) là
tổ chức mang tính đại diện rộng rãi của các tổ chức xã hội, tổ chức chính
trị-xã hội, tổ chức chính trị và các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân
tộc… Vì vậy, MTTQ là tổ chức phù hợp nhất tiến hành các vòng hiệp thương nhằm
xác định được danh sách ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND đủ tiêu chuẩn theo quy
định của pháp luật và đáp ứng được tính cơ cấu, đại diện theo vùng, miền, địa
phương, dân tộc, giới tính, độ tuổi, giai tầng, trong đó có cả người được giới
thiệu và người tự ứng cử. Người được giới thiệu hay người tự ứng cử có thể là
đảng viên, có thể là người ngoài Đảng nếu có đủ điều kiện và theo đúng các quy
định của pháp luật.
Thực
tế qua các kỳ bầu cử cho thấy, rất nhiều người tự ứng cử đã giành được sự tín
nhiệm của cử tri nơi cư trú hoặc nơi công tác, học tập nên vượt qua vòng hiệp
thương thứ hai; có đủ tiêu chuẩn và tín nhiệm vượt qua vòng bỏ phiếu hiệp
thương thứ ba để có tên trên danh sách phiếu bầu; được cử tri nơi bầu cử tín
nhiệm bầu làm ĐBQH, đại biểu HĐND. Ví dụ ĐBQH Phạm Quang Dũng
(đoàn Nam Định) và ĐBQH Nguyễn Anh Trí (đoàn Hà Nội) đều là những
người tự ứng cử.
Cùng
với đó, cũng có rất nhiều người được các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, đơn vị sự
nghiệp, tổ chức kinh tế giới thiệu (trong đó có người là đảng viên, có người
không phải là đảng viên), dù vượt qua các vòng hiệp thương nhưng không đạt được
tỷ lệ phiếu bầu ở nơi ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND. Ví dụ, tại cuộc bầu
cử ĐBQH khóa XIV, có 15 đại biểu thuộc diện các cơ quan, tổ chức, đơn
vị ở Trung ương giới thiệu nhưng không trúng cử để trở thành ĐBQH.
Việc
vận động bầu cử là việc làm bình thường ở các nước, Việt Nam không là ngoại lệ.
Cáo buộc “ép buộc” bầu người này, bầu người kia được đưa ra một cách vu vơ,
thiếu dẫn chứng cụ thể thì rất khó thuyết phục. Thực tế, nếu có hành vi ép buộc
người khác bầu cử, hành vi đó đương nhiên vi phạm Điều 95 của Luật Bầu
cử ĐBQH và đại biểu HĐND, nhẹ thì bị xử lý hành chính, nặng thì bị xử
lý hình sự. Bất kỳ ai nhận thấy mình bị mua chuộc, ép buộc khi bỏ phiếu đều có
thể khiếu nại, tố cáo để làm rõ và xử lý.
Như
vậy, về mặt pháp luật, quyền tự do ứng cử, tự do bầu cử của công dân Việt Nam được
Hiến định và được pháp luật quy định rất rõ ràng, được tôn trọng và bảo vệ. Về
mặt thực tiễn, dù người tự ứng cử hay người được giới thiệu, dù là đảng viên
hay người ngoài Đảng, ứng cử viên nào được cử tri tín nhiệm thì mới được cử tri
bầu làm ĐBQH, đại biểu HĐND. Ngược lại, ứng cử viên nào không đủ tín nhiệm
với cử tri thì đều không được bầu, không cứ đó là ứng cử viên tự do hay
ứng cử viên được giới thiệu.
Quốc hội Việt Nam không “thảo luận cho vui”
Lập
luận thứ hai mà những người đả kích Quốc hội Việt Nam đưa ra là "Quốc hội
Việt Nam chỉ thảo luận, thông qua những nội dung theo quyết định của Đảng, việc
thảo luận chỉ để “cho vui”, mang tính hình thức". Luận điệu cũ rích này
khó có thể thuyết phục được những người quan tâm, theo dõi hoạt động của Quốc
hội Việt Nam trong suốt thời gian qua.
Thực
tế, các nội dung được Quốc hội thảo luận đều thuộc phạm vi chức năng, quyền hạn
của Quốc hội theo Hiến pháp và pháp luật. Không phủ nhận, những vấn đề quan
trọng mà Quốc hội bàn thảo đều có dấu ấn lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Điều này là bình thường, bởi theo Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội. Tuy nhiên, cũng theo Hiến pháp, Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với
nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm
trước nhân dân về quyết định của mình. Mọi hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam
đều hướng tới nhân dân, vì nhân dân. Bởi vậy, việc Quốc hội Việt Nam thảo luận
về những vấn đề do Đảng lãnh đạo là đúng Hiến pháp, hướng tới nhân dân, vì nhân
dân, đáp ứng đúng nguyện vọng của cử tri và nhân dân.
Mọi
vấn đề đưa ra nghị trường đều được Quốc hội thảo luận, tranh luận một cách dân
chủ, thẳng thắn. Những nội dung không thuộc bí mật quốc gia đều được công bố
công khai, minh bạch cả về tài liệu lẫn các ý kiến thảo luận. Thậm chí, những
phiên họp liên quan tới các vấn đề lớn của đất nước, được đông đảo cử tri và
nhân dân quan tâm đều được phát thanh, truyền hình trực tiếp để cử tri, nhân dân
theo dõi, giám sát.
Mỗi
vấn đề được Quốc hội thảo luận đều có những ý kiến đồng tình, ý kiến phản bác.
Tất cả ý kiến dù đồng tình hay phản bác đều được trân trọng, tiếp thu, giải
trình đầy đủ và Quốc hội chỉ quyết định theo đa số. Tính dân chủ thể hiện rất
rõ ở tỷ lệ thông qua các dự án luật, dự thảo nghị quyết, thậm chí là quyết định
công tác nhân sự, tuyệt đại đa số đều không đạt tỷ lệ ủng hộ tuyệt đối, bởi
không đại biểu nào bị ép buộc phải nhấn nút biểu quyết đồng ý nếu bản thân chưa
nhất trí. Nếu ai theo dõi hoạt động của Quốc hội thường xuyên sẽ thấy, có những
nội dung được Quốc hội thông qua chỉ với khoảng 70% ĐBQH nhấn nút
đồng ý, trong khi tỷ lệ ĐBQH khóa XIV là người ngoài Đảng chiếm 4,2%
tổng số ĐBQH. Như vậy, trong số những đại biểu nhấn nút không đồng ý, chắc
chắn có đại biểu là đảng viên. Do đó, không thể có chuyện ĐBQH là
đảng viên đều phải nhấn nút biểu quyết đồng ý theo “chỉ đạo”.
Thực
tế cũng có những nội dung sau khi thảo luận, tranh luận đã bị Quốc hội bác bỏ,
chẳng hạn việc Quốc hội chưa đồng ý thành lập Tòa án Nhân dân khu vực, Viện
Kiểm sát Nhân dân khu vực khi thông qua các luật tổ chức liên quan tới hai
ngành này. Hay nổi bật hơn là việc Quốc hội bác bỏ chủ trương xây dựng đường
sắt cao tốc vào năm 2010. Gần đây nhất, tại Kỳ họp thứ tám, cơ quan soạn
thảo đề xuất mở rộng khung thỏa thuận làm thêm giờ. Tuy nhiên, sau khi các đại
biểu Quốc hội nhận được ý kiến của cử tri đã thảo luận rất sôi nổi về vấn đề
này. Có đại biểu đồng ý, có đại biểu không đồng ý. Kết quả biểu quyết cho thấy,
đa số đại biểu Quốc hội không nhất trí mở rộng khung thỏa thuận làm thêm
giờ. Đó là những minh chứng rõ ràng nhất để khẳng định: Quốc hội Việt Nam
không “thảo luận cho vui” mà thảo luận, tranh luận một cách thực sự, mang tính
dân chủ cao, quyết định theo đa số, theo ý nguyện của cử tri và nhân dân.
Bởi
vậy, những luận điệu cũ rích nhằm đả kích, làm giảm sút niềm tin, sự tín nhiệm
của cử tri, nhân dân với Quốc hội chẳng thể làm thay đổi được thực tế: Quốc hội
Việt Nam thực sự là Quốc hội dân chủ, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
cử tri, nhân dân đã, đang và vẫn sẽ luôn tin cậy, dành sự tín nhiệm cao cho
Quốc hội cũng như dành sự quan tâm rất lớn tới các hoạt động của Quốc hội.
TBN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét